TÍN NGƯỠNG – Di tích lịch sử – văn hoá Hà Nội

0
66

Bài viết TÍN NGƯỠNG – Di tích lịch sử – văn hoá Hà
Nội thuộc chủ đề về Wiki How thời gian này
đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy
cùng Khoa Lịch Sử tìm hiểu
TÍN NGƯỠNG – Di tích lịch sử – văn hoá Hà Nội trong bài viết hôm
nay nhé ! Các bạn đang xem nội dung về : “TÍN NGƯỠNG
– Di tích lịch sử – văn hoá Hà Nội”

Đánh giá về TÍN NGƯỠNG – Di tích lịch sử – văn hoá Hà Nội

Xem nhanh

  1. Tín ngưỡng phồn thực

Ngay từ đầu, duy trì và phát triển sự sống đã là
một nhu cầu thiết yếu nhất của con người. Đối với văn hóa nông
nghiệp, hai việc này lại càng bội phần hệ trọng. Để duy trì đời
sống, cần cho mùa màng tươi tốt. Để phát triển sự sống, cần cho con
người sinh sôi: Hai hình thức sản xuất lúa gạo (để duy trì đời
sống) và sản xuất con người (để kế tục dòng giống) này có bản chất
giống nhéu, đó là sự kết hợp của hai yếu tố khác loại (đất và trời,
mẹ và cha).Từ một thực tiễn đó, tư duy cư dân nông nghiệp Nam-Á đã
phát triển theo hai hướng: Những trí tuệ sắc sảo đi tìm quy luật
khách quan để lí giải hiện thực, kết quả là tìm được triết lí âm
dương (xem II-§1). Còn những người có trình độ Giảm thì nhìn thấy ở
hiện thực một sức mạnh siêu nhiên, bởi vậy mà sùng bái nó như thần
thánh, kết quả là xuất hiện tín ngưỡng phồn thực (phồn = thường
xuyên, thực = nảy nở). Triết lí âm dương và tín ngưỡng phồn thực
chỉ là hai mặt của một vấn đề. Ở Việt Nam, tín ngưỡng phồn thực
từng tồn tại suốt chiều dài lịch sử với hai dạng biểu hiện: thờ cơ
quan sinh dục và thờ hành vi giao phối.

1.1. Việc thờ bộ phận sinh dục nam nữ được gọi là
thờ sinh thực khí (sinh = đẻ, thực = nảy nở, khí = công cụ). Đây là
hình thái dễ dàng của tín ngưỡng phồn thực, nó phổ biến từ các nền
văn hóa nông nghiệp.

Tượng đá, hình nam nữ với bộ phận sinh dục phóng
to có niên đại hàng nghìn năm trước Công nguyên được tìm thấy ở Văn
Điển (Hà Nội), ở thung lũng Sa Pa (Lào Cai). Ở nhà mồ Tây Nguyên
xưa nay tượng người với bộ phận sinh dục phóng to thường xuyên có
mặt. Ở Phú Thọ, Hà Tĩnh và thường xuyên nơi khác có tục thờ cúng mõ
(nõn) nường (nõ = cái nêm, tượng trưng cho sinh thực khí nam; nường
= nang, mo nang, tượng trưng cho sinh thực khí nữ). Ở hội làng Đồng
Kị (Bắc Ninh) có tục rước sinh thực khí (bằng gỗ), tan hội chúng
được đem đốt và tro chia cho mọi người mang rắc ra ngoài ruộng –
hành động này như một ma thuật truyền sinh cho mùa màng. Ở nhiều
địa phương thuộc Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà Tây… trước đây vào dịp hội
làng, người ta rước tới 18 bộ sinh thực khí và khi đám rước kết
thúc mọi người tranh cướp nhéu vì tin rằng chúng sẽ đem lại may
mắn, no đủ cho cả năm.

Việc thờ sinh thực khí còn thể hiện ở việc thờ các
loại cột đá (tự nhiên hoặc được tạc ra) và những loại hốc (hốc cây,
hốc đá, kẽ nứt trên đá). Ở chùa Dạm (Bắc Ninh) có một cột đá hình
sinh thực khí nam có chạm nổi hình rồng thời Lí (hình 4. 1). Ngư
phủ ở Sở đầm Hòn Đỏ (Khánh Hòa) thờ một kẽ nứt lớn trên một tảng đá
mà dân gian gọi là Lỗ Lường (âm đọc chệch đi của tên gọi sinh thực
khí nữ), vị nữ thần này được ngư dân gọi là Bà Lường.

1.2. Bên cạnh việc thờ sinh thực khí (= yếu tố)
giống như thường xuyên dân tộc nông nghiệp khác, cư dân trồng lúa
nước với lối tư duy coi trọng quan hệ còn có tục thờ hành vi giao
phối, tạo nên một dạng tín ngưỡng phồn thực độc đáo, đặc biệt
thường nhật ở khu vực Đông Nam á.

Trên nắp thạp đồng tìm được ở làng Đào Thịnh (Yên
Bái, khoảng 500 năm trCN), xung quanh hình mặt trời là tượng 4 đôi
nam nữ đang giao phối. Ở các nhà mồ Tây Nguyên hiện vẫn dựng tượng
nam nữ giao phối hồn nhiên với cơ quan sinh dục phóng to. không chỉ
hình người, mà cả hình động vật giao phối cũng rất phổ biến. Ở thân
thạp Đào Thịnh khắc hình những con thuyền nối đuôi nhau, khiến cho
hai con cá sấu – rồng được gắn ở mũi và lái của chúng chạm nhau
trong tư thế giao hoan. Hình chim, thú, cóc giao phối tìm thấy khắp
nơi. Nếu lưu ý rằng cóc tượng trưng cho việc cần mưa, cầu mùa thì ý
nghĩa phồn thực của loại tượng cóc giao phối lại càng rõ nét.

Vào dịp hội đền Hùng, ở vùng đất Tổ lưu truyền
điệu múa “tùng dí”: thanh niên nam nữ múa từng đôi, cầm trong tay
những vật biểu trưng cho sinh thực khí nam và nữ. Ở Sở đầm Hòn Đỏ
vừa nói, khi thường xuyên ngày liên tục không đánh được cá, đích
thân người cầm đầu Sở phải tới cầu xin, lạy 3 lạy và cầm vật tượng
trưng cho sinh thực khí nam đâm vào Lỗ Lường 3 lần (lại số 3, số lẻ
ưa thích của người phương Nam!). Ở vùng La Sơn, La Cả (Hà Tây) có
tục khi rã hội (tan đám), vị bô lão chủ trì đánh 3 hồi trống, 3 hồi
chiêng; trong khoảng thời gian đó, đèn đuốc được tắt hết, mọi điều
cấm kị được lâm thời huỷ bỏ, thanh niên nam nữ được tự do. Ý nghĩa
của tục này là ở chỗ sự hợp thân của nam nữ trên đất cỏ được xem
như một hành động mang tính ma thuật, có tác dụng kích động thiên
nhiên đất trời (giống như việc rắc tro sinh thực khí ra ruộng).

Từ thời xa xưa, chày và cối – bộ công cụ thiết
thân của người nông nghiệp Đông Nam Á – đã là những vật tượng trưng
cho sinh thực khí nam và nữ, còn việc giã gạo là tượng trưng cho
hành động giao tiếp. Không phải ngẫu nhiên mà trong vô vàn cách
tách vỏ trấu khỏi hạt gạo, người Đông Nam Á đã chọn cách này; trên
các trống đồng khắc rất thường xuyên những hình nam nữ giã gạo từng
đôi. Không thấy mối liên lạc giữa việc giã gạo với tín ngưỡng phồn
thực, sẽ không hiểu được tục “giã cối đón dâu”: nhà trai bày chày
cối trước cổng, khi dâu về đến nơi thì người nhà trai cầm chày mà
giã không vào cối mấy tiếng – đó là nghi lễ cầu chúc cho đôi vợ
chồng trẻ được đông con nhiều chân.

Không biết nguồn gốc tục giã gạo, sẽ không thể nào
hiểu được tại sao ờ các làng quê xưa, rất phổ biến tục nam nữ vừa
giã cái (rỗng) vừa hát giao duyên: thể hiện ước mong trai gái sẽ
thành lứa đôi và sinh con đẻ cái. Cũng sẽ không hiểu được trò cướp
cầu – một trò chơi rất độc đáo đặc biệt phổ biến ở vùng đất Tổ
Phong Châu (Phú Thọ) và các khu vực xung quanh: Hai phe tranh nhéu
một quả cầu màu đỏ (dương), ai cướp được thì mang về thả vào hố
(âm) của bên em. Với cùng ước mong phần thực, cầu may, cầu hạnh
phúc là hàng loạt trò chơi như tung côn, ném cầu, đánh phết, đánh
đáo…

 

1.3. Vai trò của tín ngưỡng phồn thực trong đời
sống của người Việt cổ lớn tới mức chiếc trống đồng – biểu tượng
sức mạnh và quyền lực của người xưa – đồng thời cũng là biểu tượng
toàn diện của tín ngưỡng phồn thực: Trước hết, hình dáng trống đồng
được phát triển từ chiết cối giã gạo. Thứ hai, cách đánh trống dạng
theo lối cầm chày dài mà đâm lên mặt trống được khắc trên chính các
trống đồng và còn được bảo lưu ở ngươi Mường Hiện tại là mô phỏng
động tác giã gạo – động tác giao phối. Thứ ba, trên tâm mặt trống
là hình mặt trời với những tia sáng hiểu trưng cho sinh thực khí
nam, và giữa các tia sáng là một hình lá với khe ở giữa hiểu trưng
cho sinh thực khí nữ. Thứ tư, xung quanh mặt trống thường gắn tượng
cóc – con cóc trong ý thức của người Việt là “cậu ông trời”, mang
theo mưa, khiến cho mùa màng tốt tươi, cũng là một dạng biểu trưng
của tín ngưỡng phồn thực. Cuối cùng, tiếng trống đồng rền vang mô
phỏng âm thanh của tiếng sấm – cùng mang ý nghĩa trên.

Ngay cả những hiện tượng tưởng chừng rất xa xôi
như chùa Một Cột vuông (âm) đặt trên một cột tròn (dương), cột tròn
lại đặt trong cái hồ vuông (âm), hồ vuông này xưa nằm trên đảo
trong hồ Linh Chiểu hình tròn (dương): tháp Bơi (dương) bên cạnh
đài Nghiên (âm) ở cổng đền Ngọc Sơn; cửa sổ tròn (dương) trên gác
Khuê Văn soi mình xuống hồ vuông Thiên Quang Tỉnh (âm) trong Văn
Miếu… – tất cả đều đặn liên quan tới tín ngưỡng phồn thực. Cũng
không phải ngẫu nhiên mà tại các nơi thờ cúng ta thường thấy có cái
mõ đặt bên trái và cái chuông đặt bên khu bên phải: cái mõ làm bằng
gỗ (hành Mộc) đặt ở bên trái (phương đông) là dương, cái chuông làm
bằng đồng (hành Kim) đặt ở bên phải (phương tây) là âm. Tiếng mõ
trầm phải hòa với tiếng chuông thanh – đời sống vĩnh hằng chỉ có
được khi âm dương hòa hợp! Tín ngưỡng phồn thực đôi khi thâm nhập
vào cả chốn cung đình: Theo Việt sử thông giám cương mục, trong yến
tiệc do vua Trần Thái Tông đãi quần thần năm 1252, đứng chỉ huy
hiệu tênh uống rượu là một người đầu đội mo nang, tay cầm dùi
đục!

  1. Tín ngưỡng sùng bái một cách tự
    nhiên

Sùng bái tự nhiên là giai đoạn tất yếu trong quá
trình phát triển của con người. Với người Việt sống bằng nghề lúa
nước, thì sự gắn bó với một cách tự nhiên lại càng đài lâu và bền
chặt. Việc đồng thời phụ thuộc vào thường xuyên yếu tố khác nhau
của một cách tự nhiên dẫn đến hậu quả trong lĩnh vực nhận thức là
lối tư duy tổng hợp, và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tín ngưỡng đa
thần. Chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến hậu quả trong
quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm, trọng nữ, và trong
tín ngưỡng là tình trạng các nữ thần chiếm ưu thế. Và vì cái đích
mà người nông nghiệp hướng tới là sự phồn thực, cho nên nữ thần của
ta không phải là các cô gái trẻ đẹp, mà là các Bà mẹ, các Mẫu. Tục
thờ Mẫu (đạo Mẫu) đã trở thành một tín ngưỡng Việt Nam điển
hình.

2.1. Trước hết là các Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước –
những nữ thần cai quản các hiện tương tự nhiên thiết thân nhất đối
với đời sống của người trồng lúa nước. Về sau, do ảnh hưởng của văn
hóa Trung Hoa nên có thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công, Hà Bá. mặc khác,
các bà vẫn song song tồn tại: bà Trời dưới dạng Mẫu Cửu Trùng hay
Cửu Thiên Huyền Nữ; ở Huế là Thiên Mụ, Thiên Yana. nhiều nhà, ở góc
sân vẫn có một bàn thờ gọi là bàn thờ Bà Thiên. Bà Đất tồn tại dưới
tên Mẹ Đất (Địa Mẫu). Bà Nước tồn tại dưới tên Bà Thủy. Ở nhiều
vùng, Bà Đất và Bà Nước còn tồn tại dưới dạng thần khu vực như Bà
Chúa Xứ, Bà Chúa Sông, Bà Chúa Lạch. Ba bà này còn được thờ chung
như một bộ tam tài dưới dạng tín ngưỡng TAM PHỦ cai quản ba vùng
trời- đất nước: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải (âm
đọc chệch đi từ chữ Thủy).

Các bà Mây-mưa-sâm-chớp cai quản những hiện tượng
một cách tự nhiên hết sức quan trọng trong cuộc sống của cư dân
nông nghiệp lúa nước. Đến khi Phật giáo vào Việt Nam, nhóm nữ thần
này được nhào nặn thành hệ thống TỨ PHÁP: Pháp Vân (Thần Mây) thờ ở
chùa Bà Dâu, Pháp Vũ (Thần Mưa) thờ ở chùa Bà Đậu, Pháp Lôi (Thần
Sấm) thờ ở chùa Bà Tướng, Pháp Điện (Thần Chớp) thờ ở chùa Bà Dàn.
Lòng tin của nhân dân vào hệ thống Tứ Pháp mạnh đến nỗi vào thời
Lí, nhiều lần triều đình đã phải rước tượng Pháp Vân về Thăng Long
cầu đảo, thậm chí rước theo đoàn quận đi đánh giặc…

Người Việt còn thờ các hiện tượng một cách tự
nhiên khái quát như không gian và thời gian. Thần không gian được
hình dựng theo Ngũ hành: Ngũ Hành Nương Nương; rồi có Ngũ Phương
chi thần coi sóc các phương trời, Ngũ Đạo chi thần trông coi các
ngả đường. Theo địa chị, người ta thờ thần thời gian là Thập nhị
Hành khiển. Thời gian kéo dài, bảo tồn sự sống vô tận, nên 12 nữ
thần này cùng lúc ấy có trách nhiệm coi sóc việc sinh nở – đó là
Mười hai Bà Mụ.

2.2. Trong mảng tín ngưỡng sùng bái giới tự nhiên
còn có việc THỜ ĐỘNG VẬT và THỰC VẬT.

Chim, rắn, cá sấu là những loài động vật thường
nhật hơn cả ở vùng sông nước và, do vậy, thuộc loại được sùng bái
hàng đầu. Người Việt có câu: Nhất điểu, nhì xà, tam ngư, tứ tượng.
Thiên hướng nghệ thuật của loại hình văn hóa nông nghiệp còn đẩy
các con vật này lên mức biểu trưng: Tiên, Rồng. Theo truyền thuyết
thì tổ tiên người Việt thuộc “họ Hồng Bàng” và là “giống Rồng Tiên”
(thành ngữ: con Hồng cháu Lạc, con Rồng cháu Tiên). Hồng Bàng nghĩa
là một loài chim nước lớn (chữ hồng ghép bởi chữ giang là “sông
nước” và chữ điểu là “chim”, bàng là lớn). Tiên Rồng là một cặp đôi
(chỉ có dân tư duy theo triết lí âm dương mới có vật tổ cặp đôi),
trong đó Tiên được trừu tượng hóa từ giống chim (cho nên Mẹ Âu Cơ
đẻ trứng!), còn Rồng được trừu tượng hóa từ hai loài bò sát rắn và
cá sấu có rất nhiều ở vùng sông nước Đông Nam Á. Đó cũng là hai
loài vật biểu của phương Nam và phương Đông trong Ngũ hành.

Hình tượng con Rồng vốn xuất phát từ vùng Đồng Nam
Á – đó là điều đã được giới khoa học khẳng định D.V.Deopik viết:
“rồng là con vật đặc thù chung cho tất cả các dân tộc Việt và chính
từ đây nó đã đi vào văn hóa Trung Hoa”. Còn Ja.V. Chesnov thì cho
biết: “hình tượng con rồng sinh ra từ Đông Nam Á đã thâm nhập đến
những vùng xa xôi nhất của châu Âu”. Nếp sống tình cảm, hiếu hòa
của người nông nghiệp đã biến con cá sấu ác thành con rồng hiển.
Hình cá sấu là môtíp trang trí khá phổ biến trong các đồ đồng Đông
sơn. Cá sấu – Rồng được coi là chúa tể cai quản vùng sông nước với
tên gọi Bua Khú (Vua Sấu) ở người Mường, Long Quân, Long Vương ờ
người Việt. Chữ “rồng” (Việt) và “long” (Hán-Việt) đều đặn bắt
nguồn từ krong, krông, klong trong tiếng Đông Nam Á cổ có nghĩa là
“sông nước”. Con Rồng mang đầy đủ hai nét đặc trưng cơ bản của tư
duy nông nghiệp là tổng hợp và linh động: là kết hợp của cá sấu và
rắn, phát sinh từ nước và bay lên trời, bay lên trời mà không cần
phải có cánh, miệng vừa phun nước vừa phun lửa. Rất thường xuyên
địa danh Việt Nam được đặt tên “rồng”: Hàm Rồng, Hàm Long, Thăng
Long, Hạ Long, Cửu Long, Bạch Long Vĩ, Long Đỗ, Long Điền, Long
Môn, v.v. Người dân Nam Bộ (vùng này cho đến đầu thế kỉ XX vẫn rất
nhiều cá sấu) tin rằng cá sấu tu lâu năm (nằm im một chỗ cho đất
cát phủ lên thành cù lao) tới ngày đắc quả sẽ hóa thành rồng bay
lên trời (hiện tượng đó được gọi là Cù Dậy).

 

Khi được đưa từ Đông Nam Á đến Trung Hoa và châu
Âu, con rồng đã bị dương tính hóa: Ở Trung Hoa, thân hình rồng thu
ngắn lại và giống thúc còn tính cách thì ác độc và dữ tợn; khi tới
Việt Nam vào thời Hán, người Trung Hoa lần đầu tiên thấy loài cá
sấu, thuồng luồng hung dữ nên đã liền đồng nhất nó với con rồng đã
biết qua tưởng tượng, bèn gọi nó là con giao long (= rồng của xứ
Giao Chỉ – “giao” ở đây viết bằng “Giao” như trong “Giao Chỉ”) kèm
thêm bộ trùng). Đến phương Tây, rồng được xem như một con vật hung
hãn, chuyên canh giữ các kho báu; không chỉ có thế, xứ này còn gán
thêm cho nó đôi cánh, bởi lối tư duy phân tích không thể chấp nhận
được việc rỗng không có cánh mà lại biết bay.

Thực vật thì được tôn sùng nhất là cây Lúa: khắp
nơi – dù là vùng người Viết hay vùng các dân tộc – đều có tín
ngưỡng thờ Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa… Thứ đến là các loài cây xuất
hiện sớm ở vùng này như cây Cau, cây Đa, cây Dâu, qua Bầu…

  1. Tín ngưỡng sùng bái con
    người 

3.1. Trong con người có cái vật chất và cái tinh
thần. Cái tinh thần trừu tượng, khó nắm bắt, nên người xưa đã thần
thánh hóa nó thành khái niệm “linh hồn”, và linh hồn trở thành đầu
mối của tín ngưỡng. Người Việt và một số dân tộc Đông Nam Á còn
tách linh hồn ra thành hồn và vía. Người Việt cho rằng con người có
3 hồn, nhưng vía thì nam có 7, còn nữ có 9.

Hồn vía chẳng qua chỉ là danh mục của trí tuệ bình
dân với những con số ước lệ 3-7-9 quen thuộc. Dần dần người sau tìm
cách giải thích ý nghĩa của những con số này. Ba hồn, theo một cách
giải thích uyên bác, gồm tinh, khí và thân. Vía là khái niệm trung
gian giữa xác cụ thể và hồn trừu tượng, là cái làm hoạt động các
quan năng – những nơi cơ thể tiếp xúc với môi trường xung quanh.
Đàn ông có 7 vía cai quản 7 lỗi trên mặt: hai tai, hai mắt, hai lỗ
mũi và miệng. Phụ nữ thì có thêm 2 vía cai quản nơi sinh đẻ và nơi
cho con bú. Như vậy, từ xác đến vía, từ vía đến tinh, từ tinh đến
khi, từ khí đến thần là cả một chuỗi xích với mức độ trừu tượng và
tầm quan trọng tăng dần.

Hồn vía được người xưa dùng để giải thích các hiện
tượng như trẻ con hay đau ốm, hiện tượng ngủ mê, ngất, chết… Trong
hồn và vía thì vía phụ thuộc vào thể xác: có người lành vía, người
dữ vía, có người yếu vía, người cứng vía. Cho nên, khi gặp người có
vía độc, khi chạm vía thi phái đôi vía, trữ vía, giải vía. Hồn trừu
tượng hơn nên được xem là độc lập với thể xác. Hiện tượng ngủ mê
được giải thích là hồn lâm thời lìa thế xác để đi chu du. Khi ốm
nặng ngất đi bất tỉnh nhân sự thì có tục gọi hồn, ha hồn. Hồn của
người này (đã chết lâu) có khả năng nhập vào xác của người kia (mới
chết), nảy sinh chuyện Hồn trương Ba, da hàng thịt. Khi chết thi
hồn vía đều lìa khỏi xác mà ra đi.

Chết tức là cơ thể từ trạng thái động trở thành
tĩnh, cho nên theo triết lí âm dương thì hồn đi từ cõi Dương (Dương
gian, Dương thế) sang cõi Âm (Âm ti, Âm phủ). Đó là một thế giới
bên kia, ở vùng nông nghiệp sông nước này thì “thế giới bên kia”
cũng là nơi sông nước, ngăn cách chúng ta bằng chín suối (9 – con
số lẻ ước lệ biểu thị số nhiều); tới đó phải đi bằng thuyền: Thời
Đông Sơn, người chết được chôn trong những quan tài bằng thân cây
đẽo theo hình thuyền. Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và suốt miền duyên
hải Trung Bộ còn lưu giữ nghi lễ “chèo đưa linh” – hội các bà múa
điệu chèo đò và hát những câu tiễn đưa linh hồn người chết về nơi
chín suối.

3.2. Niềm tin rằng chết là về với tổ tiên nơi chín
suối, tin rằng tuy ở nơi chín suối, nhưng ông bà tổ tiên vẫn thường
xuyên đi về thăm nom, phù hộ cho cháu con là cơ sở hình thành tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nó có mặt ở thường xuyên dân tộc Đông Nam
Á và là nét đặc thù của vùng văn hóa này, nhưng, theo quan sát của
nhà dân tộc học người Nga G.G. Stratanovich thì nó thường nhật và
phát triển hơn cả ở người Việt. Ở người Việt, nó gần như trở thành
một thứ tôn giáo (nhiều nơi gọi là Đạo Ông Bà); ngay cả những gia
đình không tin thần thánh cũng đặt bàn thờ tổ tiên trong nhà.

Khác với người phương Tây coi trọng ngày sinh,
trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt Nam coi trọng hơn cả là việc
cúng giỗ vào ngày mất (kị nhật), bởi lẽ người ta tin rằng đó là
ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng. Ngoài ngày giỗ thì việc cúng
tổ tiên còn được tiến hành đều đặn vào các ngày mồng Một, ngày Rằm;
dịp lễ tết và bất kì khi nào trong nhà có việc (dựng vợ gả chồng,
sinh con, làm nhà, đi xa, thi cử,…). Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng
đặt ờ gian giữa – nơi trang trọng nhất. Người Việt quan niệm dương
sao âm vậy cho nên cúng tổ tiên bằng hương hoa, trà rượu và cả đồ
ăn lẫn đồ mặc, đồ sử dụng, tiền nong (làm bàng giấy, gọi là vàng
mã). Rượu có thể có hoặc không, nhưng li nước lã thì nhất thiết
không bao giờ thiếu. Nhất thiết có, vì nó lúc nào cũng sẵn; nhất
thiết có, còn vì ý nghĩa triết lí nước là thứ quý nhất (sau đất)
của dân trồng lúa nước. Sau khi tàn tuần hương, đồ vàng mã được đem
đốt, chén rượu cúng đem rót xuống đống tàn vàng – có như vậy người
chết mời nhận được đồ cúng tế. Hương khói bay lên trời, nước (rượu)
hòa với lửa mà thấm xuống đất – trước mắt ta là một sự hòa quyện
LỬA-NƯỚC (âm dương) và TRỜI-ĐẤT-NƯỚC (tam tài) mang tính triết lí
sâu sắc! Đối với người Việt Nam, những đồ thờ như hương án với bát
hương, đài rượu, bình hoa, chân đèn, v.v. là những vật gia bảo
thiêng liêng: dù nghèo khó mấy cũng không được bán.

3.3. Trong gia đình, ngoài thờ tổ tiên, người Việt
Nam còn có tục thờ Thổ Công. Thổ Công, một dạng của Mẹ Đất, là vị
thần trông coi gia cư, định đoạt phúc họa cho một gia đình. Sống ở
đâu thì có Thổ Công ở đó: Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá.

Thổ Công là một hình tượng bộ ba, truyện thường
được kể dưới nhén đề Sự tích ông đầu rau (hay Sự tích thần Bếp) với
rất nhiều dị bản khác biệt về chi tiết. Đại để là ngày xưa có hai
vợ chống nghèo khổ; sau một năm trời làm mất mùa, chồng phải đi làm
ăn xa, đã thường xuyên năm trôi qua mà vẫn bặt tin không thấy về.
Người vợ để tang chồng rồi nối duyên với một người đã cưu mang
nàng. Một hôm, trong khi chồng mới đi vắng thì người chống cũ sau
bao năm bặt tin bỗng trở về. Người vợ chỉ còn biết ôm chống cũ khóc
than rồi đem cơm rượu cho ăn. Rồi để tránh tiếng, người vợ bảo
chống cũ ra đống rơm núp tạm. Chồng mới về vào bếp lấy tro bón
ruộng không có, bèn ra đốt đống rơm, vô tình giết chết người chồng
cũ. Thấy chống cũ chết oan trong đống rơm, người vợ thương xót quá
bèn nhảy vào lửa cùng chết. Chồng mới thấy vậy, tuy không hiểu đầu
đuôi, nhưng vì thương vợ nên cũng nhảy vào lửa chết theo. Trời thấy
ba người sống đấy tình nghĩa bèn phong cho cả ba cùng làm Vua Bếp
(= Táo Quân, ông Táo, do vậy mà bếp có ba ông đầu rau) để được gần
nhéu mãi mãi và để lửa luôn đốt nóng tình yêu của họ. Trong bộ ba
đó, chồng mới là Thổ Công trông nom việc trong bếp, chống cũ là Thổ
Địa trông coi việc trong nhà, và vợ là Thổ Kì trông coi việc chợ
búa.

 

Mối quan hệ giữa Thổ Công (địa thần) với ông bà tổ
tiên (nhân thần) trong gia đình rất thú vị.: Thổ Công định đoạt
phúc họa cho cả nhà nên là vị thần quan trọng nhất, nhưng ông bà
sinh thành ra ta nên được tôn kính nhất. Để không làm mất lòng ai,
người Việt Nam xếp cho tổ tiên ngự tại cái bàn thờ tôn kính nhất ở
gian giữa, còn Thổ Công thì ở gian bên trái (theo Ngũ hành thì bên
trái – phương đông là nơi quan trọng thứ hai sau trung tâm). Tuy
địa vị kém nhân thần nhưng quyền lực lại lớn hơn – Thổ thần được
coi là Đệ nhất gia chi chủ. Mỗi khi giỗ cha mẹ, đều đặn phải khấn
Thổ Công trước rồi xin phép Ngài cho cha mẹ được về “phối hưởng”.
Quan hệ này giữa gia tiên và thổ thần thật chẳng khác quan hệ giữa
vua Lê và chúa Trịnh chút nào.

cũng như rất nhiều hiện tượng khác của văn hóa
Việt Nam, truyền thuyết về Thổ Công là một câu chuyện chứa đấy ý
nghĩa triết lí: Sở dĩ Thổ Công là thần đất mà cũng là thần bếp là
vì đối với người Việt Nam nông nghiệp sống định cư, đất-nhà-bếp và
người-phụ-nữ đồng nhất với nhau: đều đặn tối quan trọng như nhau.
Bô ba hai ông một ba cùng chết trong lửa, hóa thành thần bếp, được
thờ bên trái này, tạo nên một bộ tam tài đặc biệt, biểu tượng bằng
quẻ Li gồm hai (hào) dương một (hào) âm, trong Bát quái tiên thiên
có nghĩa là lửa nằm ở phương đông (bên trái); còn trong Bát quái
hậu thiên có nghĩa là (trung) nữ nằm ở phương nam, ứng với hành Hỏa
trong Ngũ hành.

Ở Nam Bộ, Thổ Công được thay bằng Ông Địa với các
đặc điểm: (a) bàn thờ đặt ở dưới đất (thân đất phải trở về với
đất!) và (b) nhiều nơi đồng nhất với Thần Tài (mọi của cải đều từ
đất mà ra!). thường xuyên tranh tượng Ông Địa với khuôn mặt nữ tính
(mặc dù có khả năng vẽ râu), ngực lớn và cái bụng chình ình của
người sắp đẻ (gọi là Ông Địa – Bà Bóng) cho thấy rằng rõ mối liên
hệ với cội nguồn Mẹ Đất và nguyên lí phồn thực.

3.4. Tín ngưỡng thờ thần của Việt Nam không những
đóng khung trong phạm vi gia đình. Ngoài các vị thần tại gia, còn
có các thần linh chung của thôn xã hoặc toàn dân tộc.

Trong phạm vi thôn xã, quan trọng nhất là việc thờ
thần làng (Thành Hoàng). tương đương Thổ Công trong một nhà, Thành
Hoàng trong một làng là vị thần cai quản, che chở, định đoạt phúc
họa cho dân làng đó. “Thành Hoàng” là một từ Hán-Việt xuất hiện sau
này để chỉ một khái niệm đã có từ lâu đời ở các làng quê Việt Nam
mà người miền núi quen gọi là ma làng. Thần làng phải có nguồn gốc
lâu đời như thế nào thì nó mới trở thành hiện tượng thường nhật đến
như vậy: Không làng nào là không có Thành Hoàng. Cái “lệ làng” này
mạnh đến mức năm 1572 (đời Lê Anh Tông), triều đình phải ra lệnh
sưu tầm và soạn ra thần tích của Thành Hoàng các làng để vua ban
sắc phong thần.

Được phong thần là những vị có tên tuổi, tước vị
rõ ràng, đó là những người có công lập ra làng xã, những anh hùng
dân tộc liên quan đến làng. Ngoài những vị Thành Hoàng được Vua
thừa nhận, có thường xuyên làng thờ làm thần Thành Hoàng cả những
người vốn là trẻ con, người ăn mày, ăn trộm, người mù, người gắp
phân, người chết nghẹn, v.v.; tóm lại là những người có “lí lịch”
không hay ho gì – loại thần này bị gọi là tà thần. Sở dĩ những
người này được thờ là vì họ, theo niềm tin của dân làng, chết vào
giờ thiêng nên đã ra oai (gây dịch bệnh, hỏa hoạn, v v.), khiến cho
dân làng nể sợ.

3.5. Trong nhà thờ gia tiên, trong làng thờ Thành
Hoàng, thì trong nước, người Việt Nam thờ Vua Tổ – vua Hùng. Mảnh
đất Phong Châu (Phú Thọ), nơi đóng đô của các vua Hùng khi xưa, trở
thành đất Tổ. Ngày 10-3 là ngày giỗ Tỗ). (Tục thờ Vua Tổ chỉ có ở
Việt Nam – điều này càng cho thấy rằng tính đặc thù của tục thờ
cúng tổ tiên ở người Việt Nam).

Người Việt Nam còn có một tín ngưỡng đặc biệt là
tục thờ Tứ bất tử (bốn người không chết): Tản Viên, Thánh Gióng,
Chử Đồng Tử, và Liễu Hạnh.

Tản Viên (với truyền thuyết Sơn Tinh Thuỷ Tinh) và
Thánh Gióng (với truyền thuyết Thánh Gióng) là biểu tượng cho sức
mạnh đoàn kết của một cộng đồng cư dân nông nghiệp để, một mặt, ứng
phó với môi trường tự nhiên là chống lụt và, mặt khác, ứng phó với
môi trường xã hội là chống giặc ngoại xâm. Sự phối hợp thần thánh
ấy đã dựng nên ĐẤT NƯỚC.

Có đất nước rồi, được sống yên ổn rồi, con người
Việt Nam không mơ ước gì hơn là xây dựng một đời sống phồn vinh về
vật chất và hạnh phúc về tinh thần. Chủ Đồng Tử – người nông dân
nghèo với hai bàn tay trắng, đã cùng vợ gây dựng nên cơ nghiệp với
phố xá sầm uất, mang vàng ra biển kinh doanh với khách thương nước
ngoài – chính là biểu tượng cho ước mơ thứ nhất. Liễu Hạnh – người
con gái quê ở xã Vân Cát (huyện Vụ Bản, Nam Định), tương truyền là
công chúa con Trời, ba lần (con số 3!) từ bỏ đời sống đầy đủ trên
Thiên Đàng, xin phép vua cha cho xuống trần gian để sống cuộc đời
của một người phụ nữ bình dị với khát vọng về tự do, hạnh phúc –
chính là hiểu tượng cho ước vong thứ hai. Hai ước vọng thiêng liêng
ấy đã tạo nên CON NGƯỜI.

Không phải là ngầu nhiên mà Liễu Hạnh xuất hiện
vào chính thời Lê (bà sinh năm 1557) – thời kì Nho giáo độc tôn,
vai trò truyền thống của người phụ nữ bi xâm phạm nghiêm trọng. Kết
quả của sự phản kháng này là: Trong truyền thuyết, triều đình đã
phải lùi bước mà trả lại tự do cho Liễu Hạnh: nhà vua (Nho giáo)
đại diện cho thế lực cầm quyền – phải lùi bước trước Phật Bà (Phật
giáo) đại diện cho quần chúng nhân dân. Ngoài cuộc đời, Liễu Hạnh
được nhân dân tôn sùng một cách thành kính là Thánh Mẫu, một cách
dân dã là Bà Chúa Liễu (xem Truyền Trạng Quỳnh), một cách gần gũi
thân thương là Mẹ (thành ngữ có câu Tháng 8 giỗ Cha, tháng 3 giỗ
Mẹ) Đền, miếu, phủ thờ Liễu Hạnh mọc lên khắp nơi: Phủ Giày (Nam
Định), phủ Tây Hồ (Hà Nội), đền Sòng và đền Phố Cát (Thanh Hóa).
đến Phủ Giày (Tp HCM),… Ngoài hệ thống Tứ bất tử, bà còn được bổ
sung vào hệ thống Tam phủ, thêm “Nhân phủ” do Mẫu Liễu Hạnh cai
quản) để thành Tứ phủ. Mẫu Liễu Hạnh lại còn được thờ trong một tin
ngưỡng riêng là Tam tòa Thánh Mẫu. Vai trò của thánh Mẫu Liễu Hạnh
lớn đến mức vua Đồng Khánh phải tự nguyện xin làm đệ tử thứ 7 của
Bà tại điện Hòn Chén (Huế).

Như vậy, tục thờ Tứ bất tử là một giá trị văn hóa
tinh thần rất đẹp của dân tộc ta. Đó là tinh hoa được chắt lọc qua
suốt chiều dài lịch sử biểu tượng cho sức mạnh kết nối của cộng
đồng để làm ruộng và đánh giặc, cho khát vọng xây dựng một cuộc
sống vật chất phồn vinh và tinh thần hạnh phúc.

Hits: 16094

Các câu hỏi về tín ngưỡng thờ của quý gọi là tín ngưỡng gì

Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê tín ngưỡng thờ của quý gọi là
tín ngưỡng gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý
của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé <3
Bài viết tín ngưỡng thờ của quý gọi là tín ngưỡng gì ! được mình và
team xem xét cũng như tổng hợp từ nhiều nguồn. Nếu thấy bài viết
tín ngưỡng thờ của quý gọi là tín ngưỡng gì Cực hay ! Hay thì hãy
ủng hộ team Like hoặc share. Nếu thấy bài viết tín ngưỡng thờ của
quý gọi là tín ngưỡng gì rât hay ! chưa hay, hoặc cần bổ sung. Bạn
góp ý giúp mình nhé!!

Các Hình Ảnh Về tín ngưỡng thờ của quý gọi là tín ngưỡng

Các hình ảnh về tín ngưỡng thờ của quý gọi là tín ngưỡng gì đang
được chúng mình Cập nhập. Nếu các bạn mong muốn đóng góp, Hãy gửi
mail về hộp thư [email protected]. Nếu có bất kỳ đóng góp hay liên
hệ. Hãy Mail ngay cho tụi mình nhé

Tham khảo dữ liệu, về tín ngưỡng thờ của quý gọi là tín ngưỡng
gì tại WikiPedia

Bạn hãy tra cứu thông tin chi tiết về tín ngưỡng thờ của quý gọi là tín
ngưỡng gì
từ web Wikipedia tiếng Việt.◄ Tham Gia Cộng Đồng
Tại

???? Nguồn Tin tại: https://ashtechservice.com/

???? Xem Thêm Chủ Đề Liên Quan tại : https://ashtechservice.com/hoi-dap/

???? Quay lại trang chủ

Các bài viết liên quan đến

  • ⭐️ ký gửi nhà đất là gì
  • ⭐️ nhà thầu phụ là gì
  • ⭐️ rắn đen vào nhà là điềm gì
  • ⭐️ làm việc nhà tiếng anh là gì
  • ⭐️ chó vào nhà là điềm gì

Loading

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here